HỒI KƯ 50 NĂM MÊ HÁT CẢI LƯƠNG (TRÍCH)
Vương Hồng Sển
Nhớ
một đêm nằm cạnh bàn đèn với Cô Ba, khi
chị Phù-Dung đến làm bạn "ấm ấm êm
êm", bỗng thấy má cô trở nên hồng hào, lông nheo
ướt ướt, mũi dọc dừa, răng c̣n
tốt, tôi nh́n lâu bỗng sợ khan.
Năm
1924.
Để
thấy cái ngông cái gàn của kẻ nầy, xin nhắc
một việc cũ nay nhớ mà c̣n thẹn thẹn.
Quả không có cái ǵ mà tôi không muốn không ham. Thậm chí
tiền không có, bề thế cũng không mà đèo ḅng
nhiều việc lếu. Ngày mồng một tháng ba d. l.
1924, tôi đi xem hát cải lương tại rạp Modern
đường d’Espagne Sài-G̣n. Lá lay tôi được
ngồi gần cô Ba Trà, lúc ấy đang sáng chói trong
tiền, trong nhan sắc và sắm xe hơi có tài-xế
phụ, để dành mở cửa.
Cô
Ba ngồi một dăy ghế thượng hạng với
bác-sĩ Trinh, Ṭa Tỷ và Sáu Ngọ. Trớ trêu thay, bên tay
mặt và sát ghế cô là ghế của kẻ nầy. Cô
ngồi xem mà mùi nước hoa làm tôi ngây ngất và khi
nửa chừng cô ra về, tôi hết biết trên sân
khấu hát ca những ǵ và khi về nhà, tôi thức
trắng đêm để đặt bài nầy, nay chép ra
đây cho thấy cái càn rỡ của tuổi xuân hiếu
sắc:
XEM
CẢI-LƯƠNG NGỘ MỸ-NỮ (CÔ BA TRÀ)
Duyên kỳ ngộ gặp nàng quốc
sắc,
Khách đa t́nh ngó mắt quên nheo!
Mới đây sao lại như bèo?
Gió de vừa sát, gặp chèo kế dang.
Tệ chi bấy! Ớ nàng mặt ngọc,
Khách cô pḥng trằn trọc năm canh
Căn duyên sao có mảnh mành,
Chưa vui sum hiệp đă đành chia phui!
Nàng tháo bước, ta ngùi ngùi thảm,
Khách lui chơn, đây dám ướm lời:
"Phiền cô tiện đó ngồi chơi,
"Cho đây xem thỏa, sắc trời phải chăng?
Khen cha chả! Khuôn trăng đầy đặn,
Càng nh́n lâu càng mặn nét hồng
C̣n trời, c̣n biển, c̣n sông,
C̣n câu t́nh ái, c̣n ḷng tương tư.
Nghĩ cũng tệ sao đi không nói?
Để lại chi mấy đọi sầu phiền.
Vật đi c̣n chút t́nh riêng,
Nàng đi nàng để cho nghiêng ngửa ḷng.
Lửa đă nhúm khó trông dụt tắt
Kể từ đây bặt bặt giấc tiên
Ngày sầu mấy khắc nào yên
Đêm trông canh lụn càng điên đảo ḷng!
Than ôi, đă sa ḍng biển ái,
Dễ ǵ toan trở lại non nhơn?
Ḷng thương ḷng lại há sờn,
Dẫu ṃn bia đá khó khờn ḷng thương...
1-3-1924
Cái
ngông c̣n chưa chịu buông tha, tiền th́ trong túi vắng
hoe, mà dư thừa thơ thổng. Vô sở làm, ở
Trường Máy, đường Đỗ-Hữu-Vị,
trọn một tuần lễ, bỏ phế hết
tất cả mọi việc, rán è ạch bôi sửa
đặt thêm một bài thơ bát cú mà không dám gởi,
chỉ cất trong cặp cho đến ngày nay:
Mỉm miệng cười duyên
đóa hải đường,
Xui ḷng thi khách biết bao thương
Dịu dàng má đỏ đào ghen thắm,
Yễu điệu ḿnh mai liễu kém nhường.
Ngọc tốt Lam – điền ai nại giá,
Hoa tươi Thượng-Uyển nực mùi hương.
Cất xong Đồng-Tước chờ tiên nữ,
Nhắn với ai kia chớ gọi thường.
Thơ
rồi để đó, lo đi cưới vợ. Cô Ba Trà
vụt vụt lên như diều gặp gió, lên xe xuống
ngựa mấy chục năm trường. Tôi th́ một
rương sách một túi áo quần, để sau c̣n
đùm đề ba cái đồ sành ưa bể.
Bỗng
vài chục năm sau, gặp nhau lại nơi bàn
tài-xỉu trong Chợ-Lớn, sau trận 1945. Cô đă
mất phong độ năm nào, nhưng hỏi tôi, hỏi
thấy nhan sắc cô nay kém hơn trước thế nào?
Tôi trả lời: "Tôi chỉ biết "người
đẹp" có h́nh chụp treo trong tủ kiếng nhà
photo Khánh-Kư lúc c̣n đi học Chasseloup" và "đă
khiến tôi thành thi-sĩ, xin lỗi, thành thợ thơ
năm nọ".
Cô
cười rồi thâu dụng tôi làm "bí thư"
suốt mấy tháng trường, Cô thuật tiểu
sử cho tôi lấy notes, vừa thấy hay hay, kế cô bán
tài-liệu cho một ông bạn nhà văn (ông T.T.Q.) tôi không
nói ǵ, nhưng xin ngưng chép chuyện tiểu-sử
nhơi bă mía, chỉ giữ lại đến hôm nay h́nh
bóng một người năm xưa từng văi bừa
bạc trăm bạc ngàn qua cửa sổ, nay không có
đến một xu-ten để cạo gió và vẫn
nuốt cơm đen kéo dài cái kiếp sống thừa không
biết đến chừng nào?
Nhớ
một đêm nằm cạnh bàn đèn với Cô Ba, khi
chị Phù-Dung đến làm bạn "ấm ấm êm
êm", bỗng thấy má cô trở nên hồng hào, lông nheo
ướt ướt, mũi dọc dừa, răng c̣n
tốt, tôi nh́n lâu bỗng sợ khan, may là tại gia đă
có một ai rồi, không có ai đó, đem ai nầy về,
ắt cái khổ c̣n ai hơn nữa! Năm xưa cô là
đóa hoa, tôi là "về rác". Cái năm gặp ở
tài-xỉu, cô đă thành "về rác", nhưng thà tôi
trôi cô-ky, không muốn kết thành bè. Tuy vậy bụng
vẫn tiếc, v́ bất quá là bá quất, chớ chi hai
về rác gặp nhau sớm, ráp lại với nhau, biết
đâu chừng biển Đông sẽ áng bóng? Không chi
cũng biết mùi la dame aux camélias Nam-Việt.
1926.
Gánh Phước-Cương.
Năm
1926, gánh Phước-Cương lên hát rạp Sài-G̣n: kép
Bảy Nhiêu làm Tống Chơn-Tôn, Cô Năm Phỉ thủ
vai Bàng Quí-Phi, hay đến đỗi Chánh-Phủ gởi
cả đôi sang Pháp diễn tại Paris dịp đấu
xảo năm 1931, ăn khách suốt mấy tháng
trường, tuy khán giả lang-sa không hiểu nổi
một câu bịn rịn hay câu vọng-cổ muồi, và
chỉ hiểu qua màu mè bộ tịch của đào kép.
Tôi
c̣n giữ được một tấm chương tŕnh
gánh Phước-Cương diễn truyện Thuyết
Đường, vợ Ngũ-Vân-Thiệu bị tên,
Bảy Nhiêu bỏ làm Vân-Thiệu, Giả-thị do Cô
Năm Phỉ đóng, hỉ nộ ai oán đủ
điều (tài-liệu số 209 Hồi-kư tập II).
Giá
chỗ ngồi:
Hạng
nhứt ...................... 1 đồng
Hạng
nh́......................... 0,60 (sáu cắc)
Hạng
ba.......................... 0,30 (ba cắc bạc)
1943. Bẵng đi một khoảng dài, tôi
đổi về Sa-Đéc (1928-1932) Sốc-Trăng
(1932-1936) và Cần-Thơ (1936-1943), tuy vẫn xem hát như
cũ nhưng không gặp chuyện nào gay cấn, cũng
những tuồng cũ diễn đi diễn lại.
Năm 1943 tôi đổi trở lại Sài-G̣n th́ lính
Nhựt-Bổn đầy đường. Đêm thứ
thư 13-1-1943, tại rạp Nguyễn-Văn-Hảo, có hát
Đại-Hội chư ban, theo chương tŕnh tôi
hiện có (số 210 Phụ-lục Hồi-kư tập II)
đủ mặt kép đào danh tiếng:
Cô Năm Phỉ và Tám Mẹo, Năm
Định gánh Nam-Phi
Bảy-Nhiêu gánh Nam Phương
Cô Thanh-Tùng gánh Thanh-Tùng
Tám Danh gánh Danh-Đàng
Cô Mười Truyền gánh Song Phụng
Cô Bảy Nam và toàn ban gánhPhước Cương
Tuồng chia làm ba lớp:
1) Vô đầu, chào Thống-chế
Pétain;
2) diễn tuồng Ngọc-nữ báo phu-cừu, tuồng
Tàu do hai gánh Phước-Cương và Song-Phụng
đồng hợp diễn (chương-tŕnh,
Phụ-lục số 210);
3) tuồng chánh “Tứ-đổ-tường” là một
tuồng ruột của gánh Phước-Cương thêm
được nghệ-sĩ thượng thặng đóng
lại vai cũ: phải tốt phước lắm
mới dự khán được những dịp nầy:
cô Năm Phỉ đóng vai người vợ hiền; Tám
Danh làm anh chồng ghiền sau sa sút đến đỗi
làm phu kéo xe; các vai khác chia nhau giữa các cô Tư Thanh-Tùng,
Bảy Nhiêu, Tám Mẹo, Năm Định, v.v...
Giá
chỗ ngồi đă tăng: 2đg, 1đg50, 1đg20, 0,70,
0,40.
1926. Nghĩa-Hiệp-Ban.
Nam-Hưng-Ban.
Cái
năm 1926 là năm ǵ mà tại Sài-G̣n, cờ bạc rần
rần, nhà xéc Sáu Ngọ gần như công khai, một ḿnh
lăo nầy bao-thầu hai chị em Năm và Bảy, hai cô
đào danh tiếng, khi vui sắm xoàn cả bụm, khi ghen
đốt áo quần sạch bách và đánh hoa biết nói
bằng roi mây đến rướm máu...
Vua
cờ bạc Sáu Ngọ lập gánh Nam-Hưng-Ban,
để người đẹp (cô B.N.) làm bầu.
Nhưng phần ṣng me trong Chợ-Lớn bị chúng theo
phá, tiền vô không được dồi-dào như
trước, phần lỗ lă v́ bao nhiêu tiền lấy ra
hùn lập ngân-hàng Phan-Thiết bị chúng sang đoạt,
rốt cuộc t́nh khô gánh ră và Sáu Ngọ cũng vào tù, khi ra
mất mối cờ bạc và chết sạt nghiệp...
đúng như lời thầy Tư Nên tiên đoán: bàn tay
chỉ sanh-mạng đứt, bên tay vợ th́ c̣n nguyên,
thế là hai người cách mặt ly thân, chồng sẽ
ngồi tù; người vợ nầy có tay cầm của,
nếu ra tù không ở lại nhau th́ chồng sạt
nghiệp, quả thật S.N. ra tù, trách vợ ngoại t́nh,
không ăn ở nhau nữa, N. đánh me đánh đâu thua
đó mà nghề chủ chứa lấy xâu đă bị
kẻ khác giựt từ lâu, nên con ma nghèo kéo đến
trở tay không kịp.
Gánh
Nam-Hưng-Ban chuyên diễn tuồng tàu, N. lại ghen, nên cô
đào chánh cũng là bầu B.N. chỉ đóng vai xấu
xí: Chung-Vô-Diệm dạ-xoa, Đào-Tam-Xuân nửa mặt
thiệt nửa mặt lọ lem, kép chánh và đào chánh
cấm đứng quá gần, cấm cụp lạc
cấm muồi mẫn trên sân khấu.
Cũng
năm 1926, gánh Nghĩa-Hiệp-Ban của ông
Nguyễn-Văn-Đẩu lập ra, chương-tŕnh tôi
c̣n giữ (Phụ-lục số 211 tập hồi-kư II), có
Nguyễn-Công-Mạnh và Nguyễn-Trọng-Quyền làm thầy
tuồng.
Phần
biên soạn th́ vững chắc, nhưng y phục và cách
trang sức kém mỹ-thuật đến gần lố
lăng: kép vơ đào vơ mặc áo nhung cổ bẻ kiểu
pyjama chung quanh viền cặp đường biên bằng
lông trừu trắng toát, đầu đội khăn
xếp, chơn đi giày Tàu. Thường dùng bít-tất dài
nịt lên tận háng, và mặc quần đùi bắt
chước cách ăn vận của phường xiệc.
Anh kép chị đào nào cũng có áo choàng và tay cầm
đoản đao hay trường côn. Cũng những
tuồng của các gánh khác đă diễn: Anh-hùng náo
tam-môn-giai, Tang-Đại giả gái, Sở Vân té lầu, Tra
án Quách Ḥe, Xử án Bàng Quí-Phi ..., sau rốt hát không lại
các gánh lớn và ră gánh.
C̣n
nhiều gánh hát nữa sống chật vật, chết vô
danh, nay đến tên hiệu cũng không c̣n nhớ cô
đào thấm mật, nước mắt dầm dề:
"Công-tử ôi! xin nương tay cho thiếp
nhờ!". Việc năm xửa năm xưa đă trên
bốn chục năm, không biết người
đương sự c̣n nhớ chăng?
1927. Năm 1927, tôi cưới vợ.
Người
cậu của vợ (nay hai tôi đă ly-dị), ông
Dương-Văn-Giáo từng trách yêu tôi: "Thà làm kép cho
hay như Nguyễn-Thành-Châu, hơn là làm việc cho
Tây!". Câu nói ấy thốt ra đêm Cô Bảy Phùng-Há hát
tại Nhà Hát Tây, cô thủ vai Mộc-Quế-Anh dâng cây và
người đóng cặp vai tướng nhỏ
đẹp trai Dương-Tôn-Bảo, không ai khác hơn là
anh Năm Châu. Kép tức thầm, ghen trong bụng, v́ lúc
ấy cô đào duyên dáng sắp lọt vào tay Bạch-công-tử
Phước Georges.
Ra
diễn trên sân khấu, kép đánh giặc thiệt và
đánh thật mạnh. Cô đào ban đầu chưa
biết, c̣n hư hởn ghẹo: "Ai đâm th́ ḿnh
đỡ! Ai để hở mà đâm!" (Câu bên hát
bội đă có). Nhưng kép hầm hầm, đập giáo
nào ê tay giáo nấy, cô đào thấm mật, nước
mắt dầm dề: "Công-tử ôi! xin nương tay
cho thiếp nhờ!" Việc năm xửa năm
xưa đă trên bốn chục năm, không biết
người đương sự c̣n nhớ chăng??
1928-1929. Núp cánh gà xem đít mọc râu.
Tôi
đổi đi Sa-Đéc làm thơ-kư phát ngân tại
Ṭa-bố. Cô Bảy Phùng Há xuống diễn. Cậu Tư
Phước Georges, chủ gánh Huỳnh-kỳ có nhă ư
mời hai tôi đến xem hát. Đây là v́ cảm t́nh riêng
chớ thuở ấy có đủ cách hối lộ,
một thông lệ vẫn c̣n tồn tại nhiều nơi
là mỗi gánh đến hát tại tỉnh phải có
thứ giấy mời đặc biệt ông thông ngôn
đứng bàn ông chánh, thay mặt cho sở kiểm
duyệt, đề pḥng trong khi hát có nói lời xúc phạm
chánh-phủ chăng. Mà hễ mời thầy thông ngôn th́
phải mời đủ cặp, có khi ông bà mắc
đậu chến th́ con vú bác tài đưa nhau đi xem
thế, không cho vào cửa có môn* dọn đi. Mời
rồi bên Ṭa-bố lại phải mời thầy kư làm
việc Sở Cẩm, đề pḥng lính tráng đâm chém làm
khó không cho hát.
Nhưng
đêm ấy tôi không đi giấy mời mà mua vé đàng
hoàng, lại vô buồng đứng sau cánh gà để
phỉ t́nh đàm đạo và góp ư kiến với Cậu
Tư. Nhờ vậy mà tôi mục kích một lớp
hài-hước không có trong chương tŕnh.
Cô
Bảy hôm ấy diễn tuồng vơ, diễn
được hai ba màn, thấm mệt, nên khi vô buồng,
cô tạm ngồi trên chiếc ghế mây mà sơ ư nhè
ngồi đại nên không coi trước.
Một
anh kép vơ hết phiên trước cô vào buồng nằm
xả hơi trên chiếc rương lớn, lúc ấy c̣n
xài râu dán bằng keo, nên anh cẩn thận trước khi
nằm đă gỡ râu ra cho khỏi vướng.
Đến lượt anh xuất hiện, anh ngồi
dậy kiếm hoài không thấy bộ râu ḿnh mới
để đâu đây, anh chạy giáp buồng hát,
miệng lầm bầm "đ.m. thằng nào lấy râu
tao!!". Kiếm măi không có râu và túng quá v́ đă đến
phiên ḿnh ra tuồng, anh bèn bước đại ra sân
khấu, vừa ca hát vừa lấy tay áo rộng che
miệng và cằm.
Thoạt
tới phiên cô Bảy xuất hiện, bộ râu nhủn
nhẳn sau mông cô mà cô không hay, cô vừa xây lưng, anh kép
vụt thấy bộ râu ḿnh làm mất, mừng quưnh quưu
nhảy một nhảy chụp vào phía hậu cô Bảy mà
ráp lẹ vào cằm ḿnh, việc xảy ra mau như
chớp nhưng cũng đủ cho một mớ khán
giả mấy hàng đầu lanh mắt thấy đủ
hết từ đầu chí cuối, không nhịn
cười được nên đồng rộ
cười lên gần bể rạp.
Khỏi
nói đào kép trên sân khấu rán diễn như thường
cho lấp chuyện, nhưng trong màn thấy cớ sự
"bại hoại ốc trâu cả đám" nên lật
đật cho bỏ màn xuống. Pha nầy đă có
người nghe lóm và viết nhại tôi, hoặc giả y
cũng đồng thấy như tôi, tôi không cần
biết, duy chuyện có sao nói vậy, c̣n tin cùng không là
phần của độc giả.
Lúc
nầy là lúc quần áo kiểu Cát-Tường (Le Mur)
thịnh hành và cũng lúc nầy Cô Bảy đương
trong thời kỳ đào tiên hơ hớ, cô diễn
tuồng xă-hội, mỗi lần cất giọng ca
Quảng, chót đuôi câu y-ỷ-y nghe gần bể rạp!
Ngày nay lớp sau ca tấn phát nhiều. Nghe kỹ lại
hơi xưa và so sánh với làn hơi kim thời, thấy
nhiều chỗ khác. Về giọng ngâm thơ theo
điệu Bắc, nay nhờ Radio đă quen tai, chớ
chầu xưa duy có Tư Út rỉ rả câu "con cá vàng
và anh Tây đen" là c̣n nghe giông giống. Năm nào tại
nhà tôi ở Sốc-Trăng Tư Út đến chơi,
lấy dĩa "Huyền-Châu-Nữ" quây nghe lại,
rồi Út ca lại bản đó, nhưng đă bớt
hơi không bằng khi vào dĩa, Út ngó tôi châu mày và chôn luôn
cơn buồn vào ly Bisquit-Soda vàng lườm.
1932-1933.
Những
năm nầy nạn kinh-tế khủng hoảng hoành hành
nặng nhứt trên mảnh đất miền Nam cũng
như khắp hoàn cầu. Chẳng lành th́ chớ
người cậu ruột thứ năm của tệ
nội đâm mê một kép hát đực. Không nghe lời
khuyên gián, đương làm ông viên-ngoại ăn
lương "hàm chánh thất" bên xóm
Thiềng-Đức ngang chợ Vĩnh-Long, Cậu Năm
bỏ nhà bỏ vợ con để khăn gói theo anh kép.
Cậu
Năm tôi tuy đàn ông và rất đẹp trai, nhưng
ăn trầu xỉa thuốc, khiến tôi nhớ
đến ông Cẩn ở Huế gặp sau nầy.
Cậu Năm gói bánh trái tôi dám chắc đàn bà không khéo
bằng và nghề nấu nướng hơn cả các tay
đầu bếp thiện nghệ. Ở không, làm ông nhà
giàu ăn lương vợ, Cậu đâm chán rồi
lấy tiền nhà lập gánh cải-lương,
để có dịp theo anh kép nghe ca, mà lúc ấy phải
nh́n nhận anh kép nầy có một giọng khác hẳn
giọng Út-Chơi-Châu-Thạch. Anh kép đi thâu dĩa,
Cậu cũng đi theo. Anh kép đến đâu, Cậu
theo đến đó. Gánh hát lỗ lă, Cậu về vét
tiền nhà. Người vợ hiền không cho, Cậu
lại nhờ đến tôi. Măi sau hay tin cậu thất
vọng, uống độc dược và xác chôn trên
Nam-Vang. Anh kép sau làm bầu, nay đă chết. "...
Văng vẳng tiếng chuông chùa..."
-
Gánh Hồng-Nhựt.
Một
bộ ba chuyên đóng tuồng Tàu lớp Quan Công hiển
thánh. Mười Bửu làm vai Ông, Sáu Lực vai Quan B́nh,
Năm Diệp vai Châu Thương: ban đầu công chúng
thấy lạ, đổ xô đến xem, nhưng sau
hơi ngán trách thầm gánh hát ǵ trịch thượng dám
lấy Thần-Thánh làm tṛ, nên thưa lần. Mười
Bửu có tài lấy đất sét nắn tượng
rất khéo, sau chết bịnh trên xứ Đà-Lạt. Sáu
Lực nay cũng ra người thiên cổ, và bộ ba
nầy y như là gánh Hồng-Nhựt nếu tôi không
lầm. Mười Bửu có giọng ca "đổ
hột" vừa déo dắt, vừa du dương: anh
chịu khó chơi với kép hát Quảng trong
Chợ-Lớn và học tập từ làn hơi đến
điệu bộ, hệt Tàu. Mặt anh no tṛn nên dặm
mặt Quan Công trông y như trong tranh thờ. Trong nhiều
vai vơ, Mười Bửu ca sang sảng thanh âm cao vót lanh
lảnh như tiếng chuông ngân thật là xuất sắc.
Anh
cũng là một tay đờn có tiếng và thích ca trên cây
tỳ-bà những bản xưa Nam xuân, Nam ai, Giang-Nam,
Trường tương-tư. Chính anh thuộc những
bản rất cổ "Tô-Huệ chức cẩm hồi
văn" v.v... ít người dám ca dám đờn.
Mười Bửu là một trong những kép thọ giáo
được điệu Tàu tập luyện có căn
bản và có phương pháp luật lệ nhất
định của điệu nầy. Tuồng Tam
Quốc, lớp Quan Công đại chiến Bàng Đức,
bộ ba Bửu, Lực, Diệp diễn rồi không có gánh
nào diễn ăn qua được. Trong gánh
Hồng-Nhựt có Cô Sáu Nết nổi danh một lúc, sau cô
có chồng nên thôi hát, ra làm bà chủ quán dưới gốc
cây điệp to đường Hai Bà Trưng,
Tân-Định.
-
Gánh Huỳnh-Kỳ của Cô Bảy Phùng-Há và Cậu Tư
Phước Georges.
Tôi
có nhiều cảm t́nh riêng đối với Cậu Tư.
Nay Cậu đă ra người thiên cổ, tập
"hồi-kư" nầy vả chăng là một
"nồi xào bần thập cẩm", nên xin cho phép tôi
nhắc lại vài đoạn để nhớ
"Cậu Tư" cố hữu:
Bạc-Liêu
là xứ ăn chơi, giàu lúa gạo giàu muối giàu
tiền. Điệu Vọng-cổ cũng từ tỉnh
Bạc phát ra... Nhưng Bạc-Liêu c̣n lắm thú vui khác: thú
ăn cháo Tiều với hột vịt muối và cua
muối giác khuya, thú xuống biển ăn ṣ huyết
hoặc ăn nhăn chín tại vườn, khi ăn dưa
hấu tại gốc trồng ngoài băi biển... và có
dịp để phóng xe chạy cho mát, sau đó sẽ lên
mở pḥng tại phố Sốc-Trăng.
Tại
chợ nầy, một năm nọ có cuộc đụng
độ của hai công-tử: một chàng đen đúa,
thứ ba, sanh trưởng trong ruộng muối tỉnh
Bạc, nên được người trong xứ gán cho
mỹ-hiệu "Hắc công-tử" khi nào
trước mặt sẽ nịnh bằng danh từ
"Cậu Ba H."; một chàng trắng trẻo, thứ
tư, sanh trưởng tại xứ sông sâu nước
chảy, trái cây ê hề, đất Tiền-Giang
(Mỹ-Tho), ăn chơi hào phóng, nên được các tay
em tặng hai chữ "Cậu Tư" ngọt xớt,
và để đối diện với chàng Hắc, đây
là Bạch công-tử có số đào hoa.
Người
cố cựu tỉnh Sốc c̣n nhớ vài giai thoại lư
thú về hai cậu: tôi cứ viết ra đây nhưng
không đảm bảo đúng y sự thật, v́ việc
lâu ngày đă méo mó không ăn khuôn.
Mà
thiết tưởng không nên quá câu nệ và cũng
chẳng cần biết đích xác làm ǵ, duy nhớ một
đêm nọ, Cậu Ba ngồi xem hát hàng ghế danh
dự, Cậu Tư v́ nể khách và để tỏ t́nh
thân thiện cũng xuống ngồi gần đàm
đạo.
Buổi
hát đă về khuya gần văn. Cậu Ba lấy ví thuốc
ra hút, lay hoay thế nào mà một tờ giấy con công
(năm đồng bạc thuở ấy) từ trong túi
bỗng rơi xuống đất, mà quẹt diêm ǵ cũng
không sẵn trong tay, báo hại chàng Hắc-công-tử
bất kể giữa đám hát đang hồi cụp
lạc trên sân khấu, chàng ngồi chồm hổm
xuống đất sờ soạng dưới nền
xi-măng dơ dáy như lăo thợ may đánh mất cây
kim, bộ tịch lụm cụm y như lăo thầy bói mù
ṃ tiền hoẻn, trông thật buồn cười.
Bạch-công-tử thấy bộ tịch, mắc cỡ
giùm nên hỏi:
- Toa làm ǵ kỳ cục vậy?
- Moa kiếm tờ giấy con công, đ.m., mới rớt
xuống đây mà mất tiêu như có ma giấu!
- Nè! để moa cho mượn cây đuốc! Nói rồi
Bạch-công-tử vừa đốt một tờ giấy
"oảnh" (vingt, hai chục bạc) soi sáng cho
Hắc-công-tử thu hồi tờ giấy con công, ngụ ư
giấy hai chục khi phải việc tôi c̣n bất kể
sá ǵ, hà huống anh vừa đánh rơi một tờ
cỏn con năm đồng mà anh đă lính quưnh như
"họ đạo mất qu...ần?"
Cũng
tại chợ Sốc-Trăng, cách đó không lâu, chàng
Bạch-công-tử ngộ nạn một cách gián tiếp.
Năm nọ, quên mất năm nào, Cậu đưa gánh
hát từ chợ Mỹ-Tho xuống diễn một ṿng
Hậu-Giang và gánh hát đang phô tài tại chợ Sốc-Trăng
vừa được một hôm.
Vốn
người phong lưu hào hiệp nên đi đến
đâu Tư Phước có dắt bộ hạ em út tay
chơn theo đông lắm. Trong đám có một anh chàng lai,
có Pháp-tịch (sau năm đảo chánh 1945, từng làm
Cảnh-sát-trưởng tại G̣-Công), lúc ấy anh nầy
chưa gặp thời nên theo núp gió làm hộ-vệ cho
Cậu Tư, vừa vui vừa học thêm được
nhiều việc. Sau mông anh có đeo cộm cộm cây chó
lửa, Browning 6m/m 35. Sáng sớm bữa đó, Cậu
Tư tự lái xe nhà, Fiat Sport, đưa các em út đi
ăn sáng.
Quán
Hải-Nàm nầy làm xíu mại có danh và bán café
đường Đại-Ngăi, nay là Hai-Bà-Trưng, quán
ở bên kia đường trước dăy phố nhà Ba tôi
ở. Chiếc xe đậu không được sát lề,
nên có một cai Phú-lích, bấy lâu cà-xốc nội chợ
đều ghét, nay tên cai lại sân si đ̣i biên phạt.
Cậu
Tư, quân tử, nhận lỗi một cách rất
lịch sự. Nhưng Cai nhà ta nhứt quyết
định làm biên-bản một đ̣i phạt hai đ̣i
phạt cho được mới bằng ḷng. Thầy Cai
ta làm quá trớn, anh chàng lai hộ-vệ nóng ruột binh
chủ, bèn đứng ra can thiệp. Cho hay: một năm
chỉ có một phút rủi... Chuyện là chuyện của
Cậu Tư, bỗng chuyền qua cho chàng lai chịu
đựng. Anh Cai sùng năy giờ, bỗng sần sộ và
thách đố:
- Mầy ỷ mầy Tây, mầy có súng. Mầy giỏi
bắn tao chơi?
- Tôi không chọc anh. Cô bác coi đó mà coi! Mà anh thách tôi, tôi
bắn anh à!
- Mầy giỏi bắn c.t tao đây nè!!
Một
tiếng súng nổ. Chàng lai dằn không được,
quả bắn ngay chỗ đó. Cai ta nằm cho một
đống. Câu chuyện đi ăn điểm tâm bất
thành. Chàng lai đi ngay lại bót tự nạp ḿnh và tŕnh
với C̣. Vi bằng lập không khó, nhân-chứng trong quán
nước cũng như bàng quan lối xóm đều nh́n
nhận có sự khiêu-khích và thách đố của anh Cai cà
xốc, v.v... Chàng lai bị tù đă đành, nhưng măn tù
ra, tôi vẫn bắt tay và chào hỏi nhau, trọng nhau, và
cử chỉ của chàng ở chợ Sốc-Trăng c̣n
nhiều người nhắc nhở.
Nếu
các bạn có dịp ghé chợ Sốc-Trăng hiện
giờ trên con đường Hai-Bà-Trưng, nếu gặp
phố lầu nào hai căn biến thành một rạp
chớp bóng nho nhỏ, nhà ấy là nơi nhau rún của
kẻ viết mấy hàng nầy, - nhà hương hỏa
của phụ-thân chúng tôi để lại, và chỗ tên
Cai trả nợ làm phách không nên lối, ở về bên kia
lề phố nhưng tiệm nước năm nọ nay
đă trở nên một cửa hàng tạp hóa, nh́n không ra.
*
"có môn" hay "có nước...": Phương
ngữ Nam Bộ, ư muốn nói "không c̣n cách nào khác,
chỉ c̣n cách ..." (eVăn chú thích).
(trích
Vương Hồng Sển. Hồi kư 50 năm mê hát cải lương của NXB
Trẻ, tháng 4/2007).